Chuyên đề xây dựng ý thức tôn trọng nhân dân, phát huy dân chủ, chăm lo đời sống nhân dân theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh
CHUYÊN ĐỀ 2019
XÂY DỰNG Ý THỨC
TÔN TRỌNG NHÂN DÂN,
PHÁT HUY DÂN
CHỦ, CHĂM LO ĐỜI SỐNG NHÂN DÂN
THEO TƯ TƯỞNG,
ĐẠO ĐỨC, PHONG CÁCH HỒ CHÍ MINH
(Tài liệu sinh
hoạt chi bộ, đoàn thể, cơ quan, đơn vị năm 2019)
---------
Xây dựng ý thức tôn trọng Nhân dân, phát
huy dân chủ, chăm lo đời sống Nhân dân là nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí
Minh, tạo động lực to lớn cho công cuộc đổi mới; đồng thời là giải pháp quan trọng,
cấp bách trong xây dựng Đảng, Nhà nước, hệ thống chính trị giai đoạn hiện nay.
Năm 2019 là năm chúng ta kỷ niệm 50 năm
thực hiện Di chúc của Người (1969 - 2019); 70 năm Bác viết tác phẩm Dân vận
(1949 - 2019); 50 năm tác phẩm “Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa
cá nhân” (1969 - 2019). Thực hiện có hiệu quả chủ đề xây dựng ý thức tôn trọng
Nhân dân, phát huy dân chủ, chăm lo đời sống Nhân dân trong năm 2019 và các năm
tiếp theo là thực hiện tốt Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị khóa XII về đẩy mạnh
học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.
I. TƯ TƯỞNG, ĐẠO ĐỨC, PHONG CÁCH HỒ CHÍ MINH VỀ TÔN
TRỌNG NHÂN DÂN, PHÁT HUY DÂN CHỦ, CHĂM LO ĐỜI SỐNG NHÂN DÂN
1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn trọng Nhân dân, phát huy dân chủ,
chăm lo đời sống Nhân dân
-
Tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn trọng Nhân dân xuất phát từ những bài học lớn
được rút ra từ chiều sâu của lịch sử như Nguyễn Trãi đã kết luận: Lật thuyền mới rõ dân như
nước. Đồng thời là sự vận
dụng và phát triển sáng tạo học thuyết Mác-Lênin khi các nhà kinh điển khẳng
định cách mạng là sự nghiệp của quần chúng Nhân dân, Nhân dân đóng vai trò
quyết định trong sự nghiệp cách mạng. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, cách mạng và
kháng chiến thành công, đem lại giá trị lớn nhất là chế độ Dân chủ Cộng hòa. Từ
đây, phạm trù “ý thức tôn trọng nhân dân” mới thật sự có ý nghĩa khoa học, cách
mạng và nhân văn. Theo Hồ Chí Minh, người cách mạng “yêu nước” là phải “thương
dân”, “trung với nước” là phải “hiếu với dân”.
Tôn trọng Nhân dân trước hết phải
có thái độ đánh giá cao vai trò, vị trí của Nhân dân. Theo Hồ Chí Minh, “vô
luận việc gì đều do người làm ra, từ nhỏ đến to, từ gần đến xa đều thế cả”. Người
chỉ ra rằng: “Chúng ta phải ghi tạc vào đầu cái chân lý này: dân rất tốt. Lúc
họ đã hiểu thì việc gì khó khăn mấy họ cũng làm được, hy sinh mấy họ cũng không
sợ”.
Theo Người, “nếu không có nhân dân thì Chính phủ không đủ lực lượng… Chúng ta
phải yêu dân, kính dân thì dân mới yêu ta, kính ta”.
Bàn về chữ “Nhân”, Hồ Chí Minh cho
rằng “Nhân nghĩa là nhân dân. Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân. Trong
thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”. Bàn về chữ
“Thiện”, Người cho rằng “Thiện là tốt đẹp. Trong xã hội không gì tốt đẹp, vẻ
vang bằng phục vụ cho lợi ích của nhân dân”.
Muốn thật sự tôn trọng Nhân dân thì
phải hiểu dân. Chính tài dân, sức dân, của dân, quyền dân, lòng dân, sự khôn
khéo, hăng hái, anh hùng đã tạo nên “cái gốc” của dân. Kế thừa quan điểm chủ
nghĩa Mác-Lênin, Hồ Chí Minh khẳng định “cách mạng là sự nghiệp của quần chúng
nhân dân” Mặt khác phải thấy rằng dân chúng tai mắt họ nhiều, việc gì họ cũng
nghe, cũng thấy. “Dân chúng đồng lòng, việc gì cũng làm được. Dân chúng không
ủng hộ, việc gì làm cũng không nên”.
Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Kinh nghiệm trong nước và các nước tỏ cho chúng ta biết:
có lực lượng dân chúng việc to tát mấy, khó khăn mấy làm cũng được. Không có,
thì việc gì làm cũng không xong”.
Cùng
với thái độ đánh giá cao vai trò của Nhân dân, ý thức tôn trọng Nhân dân còn
phải đặc biệt chú ý không xâm phạm đến lợi ích, quyền lợi hợp pháp, không xúc
phạm Nhân dân. Phải luôn luôn tôn trọng và giữ gìn của công, của Nhân dân. Hồ
chí Minh chỉ rõ tôn trọng Nhân dân có nhiều cách, “không phải ở chỗ chào hỏi
kính thưa có lễ phép mà đủ. Không được phung phí nhân lực vật lực của dân, Khi
huy động nên vừa phải, không nên nhiều quá lãng phí vô ích. Phải khôn khéo tránh
điều gì có hại cho đời sống nhân dân. Biết giúp đỡ nhân dân cũng là biết tôn
trọng dân”.
Trên cơ sở nhận thức “nước lấy dân
làm gốc”, ý thức tôn trọng Nhân dân phải luôn gắn chặt những “điều không nên”
và những “điều nên” làm. Giữa năm 1948, Hồ Chí Minh đã chỉ ra 6 điều không nên
làm và 6 điều nên làm. Trong 6 điều không nên làm có những điều liên quan đến
cuộc sống hàng ngày của Nhân dân nói chung, đồng bào miền ngược nói riêng như
tín ngưỡng phong tục, đáng chú ý là “không bao giờ sai lời hứa”, “không nên làm
hoặc nói điều gì có thể làm cho dân hiểu lầm rằng mình xem khinh họ”. Những
điều nên làm cũng liên quan đến công việc thực tế hàng ngày, đặc biệt là “làm
cho dân nhận thấy mình là người đứng đắn, chăm công việc, trọng kỷ luật”. Hồ
Chí Minh kết thúc 12 điều đó bằng bài thơ cổ động khẳng định đã là người yêu
nước thì “nhất quyết không quên” và ai cũng làm được, phải biến thành thói quen,
muôn người như một. Làm được như vậy thì dân tin, gốc vững. Mà “Gốc có vững cây
mới bền. Xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân”.
-
Phát huy dân chủ là một khía cạnh biểu hiện ý thức tôn trọng Nhân dân. Trong
chế độ Dân chủ Cộng hòa, dân là chủ, thì Chính phủ, Đảng, cán bộ từ trung ương
đến địa phương đều phải phụng sự Nhân dân, là công bộc của dân, “sẵn sàng vui
vẻ làm trâu ngựa, làm tôi tớ trung thành của nhân dân”.
Từ chỗ đánh giá cao vai trò của dân, Hồ Chí Minh nhấn mạnh trách nhiệm của
Đảng, Nhà nước trong việc phát huy quyền làm chủ của Nhân dân, làm sao cho họ
có năng lực làm chủ, biết hưởng, dùng quyền dân chủ, dám nói, dám làm. Dân chủ
được Người giải thích ngắn gọn, súc tích là dân làm chủ và dân là chủ.
Hồ Chí Minh kiên trì xây dựng một nhà nước thật sự dân
chủ - nhà nước của dân, do dân, vì dân. Mối quan tâm hàng đầu của Người là làm
cho mọi người dân hiểu nhà nước mới, chế độ mới khác nhà nước cũ, chế độ cũ ở
điều quan trọng nhất là giá trị dân chủ. Dân chủ tức là Nhân dân có quyền lợi
làm chủ và phải có nghĩa vụ làm tròn bổn phận công dân. Nước dân chủ, chế độ
dân chủ thì bao nhiêu lợi ích đều vì
dân, bao nhiêu quyền hạn đều của dân, công việc đổi mới là trách nhiệm của dân,
quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân. Trong nước dân chủ thì địa vị cao nhất
là dân, dân là quý nhất, lực lượng Nhân dân là mạnh nhất.
Phát huy dân chủ là phát huy tài
dân. Bởi vì, “dân chúng biết giải quyết nhiều vấn đề một cách giản đơn, mau
chóng, đầy đủ, mà những người tài giỏi, những đoàn thể to lớn, nghĩ mãi không
ra”.
Muốn vậy, thì phải chịu khó nghe dân, gặp dân, hiểu dân, học dân, hỏi dân. Học
hỏi dân để lãnh đạo dân. Theo Hồ Chí Minh “Không học hỏi dân thì không lãnh đạo
được dân. Có biết làm học trò dân, mới
làm được thầy học dân”.
Khi người dân chưa hiểu dân chủ là
gì thì không thể thực hành dân chủ thật sự. Vì vậy phát huy dân chủ là phải tìm
mọi cách bàn bạc, giải thích cho dân hiều rõ. “Được dân chúng đồng ý. Do dân
chúng vui lòng ra sức làm”.
Phát huy dân chủ là tìm đủ cách giải thích cho dân hiểu, ngay cả những việc trực
tiếp có lợi cho dân, như đắp đê, hộ đê, tăng gia sản xuất, bình dân học vụ. Giống
như đem một cái bánh ngọt ngon lành bắt người ta ăn, nhét vào miệng người ta,
thì ai cũng chán. Nếu làm theo cách hạ lệnh, cưỡng bức, thì dân không hiểu, dân
oán. “Dân oán, dù tạm thời may có chút thành công, nhưng về mặt chính trị, là
thất bại”.
Trên cơ sở tin vào dân chúng, phát huy dân chủ là “nghị quyết gì mà dân chúng
cho là không hợp thì để họ đề nghị sửa chữa. Dựa vào ý kiến dân chúng mà sửa
chữa cán bộ và tổ chức của ta”.
-
Về chăm lo đời sống Nhân dân. Tư tưởng Hồ Chí Minh là vì con người, do con
người, trước hết là vì dân và do dân. Người nói rằng “tôi chỉ có một sự ham
muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta
được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”.
Từ lúc còn là người thiếu niên mười lăm tuổi, Hồ Chí Minh đã sớm hiểu biết và
rất đau xót trước cảnh thống khổ của đồng bào. Người quyết tâm đi ra nước ngoài
tìm đường cứu nước, cứu dân.
Cách mạng Tháng Tám thành công, một
ngày sau Tuyên ngôn độc lập, Hồ Chí
Minh đã đề ra 6 nhiệm vụ cấp bách giải quyết những vấn đề về đời sống vật chất
và tinh thần của Nhân dân. Người nhấn mạnh “muốn cho dân yêu, muốn được lòng
dân, việc gì có lợi cho dân phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân phải hết
sức tránh. Phải chú ý giải quyết hết các vấn đề dầu khó khăn đến đâu mặc lòng,
những vấn đề quan hệ đến đời sống của dân. Phải chấp đơn, phải xử kiện cho dân
mỗi khi người ta đem tới. Phải chăm lo việc cứu tế nạn nhân cho chu đáo, phải
chú ý trừ nạn mũ chữ cho dân. Nói tóm lại hết thảy những việc có thể nâng cao
đời sống vật chất và tinh thần của dân phải được ta đặc biệt chú ý”.
Sau khi đã tranh được độc lập rồi
thì vấn đề kiến quốc là hết sức quan trọng. Bởi vì, “nếu nước độc lập mà dân
không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”.
Với nhận thức đó, cùng với chỉ đạo kháng chiến, Hồ Chí Minh tập trung vào nhiệm vụ kiến quốc. Kháng chiến và kiến quốc
gắn bó chặt chẽ với nhau. Muốn kháng chiến thành công thì phải có sức dân, lòng
dân. Muốn có sức dân, lòng dân thì phải chăm lo đời sống của dân. Hồ Chí Minh
nhấn mạnh: “Chúng ta tranh được tự do, độc lập rồi mà dân cứ chết đói, chết
rét, thì tự do, độc lập cũng không làm gì. Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do,
của độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ. Chúng ta phải thực hiện ngay: 1. Làm
cho dân có ăn; 2. Làm cho dân có mặc; 3. Làm cho dân có chỗ ở; 4. Làm cho dân
có học hành. Cái mục đích chúng ta đi đến là bốn điều đó. Đi đến để dân nước ta
xứng đáng với tự do độc lập và giúp sức được cho tự do độc lập”.
Trước lúc đi xa, Hồ Chí Minh vẫn
quan tâm “đầu tiên là công việc đối với con người”. Người dặn trong Di chúc “Đảng cần phải có kế hoạch thật
tốt để phát triển kinh tế và văn hóa, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của
nhân dân”.
2. Đạo đức Hồ Chí Minh về tôn trọng Nhân dân, phát huy dân chủ, chăm lo
đời sống Nhân dân
-
Đạo đức Hồ Chí Minh về ý thức tôn trọng Nhân dân thể hiện nổi bật ở sự
thống nhất giữa tư tưởng đạo đức và tư tưởng chính trị của Người. Nho giáo nhấn
mạnh đạo đức, cường điệu tác dụng của đạo đức là cốt trừ hại cho giới cầm quyền
hơn là vì lợi ích của nhân dân. Đó là học thuyết để cho phong kiến trị dân.
Trung thành với chế độ phong kiến là đi ngược lại với lẽ tiến hóa tất yếu của
con người, đi ngược lại với lợi ích của nhân dân. Sự khác nhau căn bản giữa
Khổng Tử và Hồ Chí Minh, giữa học thuyết Nho giáo và tư tưởng đạo đức Hồ Chí
Minh là ở chỗ: nhà vua và chế độ phong kiến - cái mà Nho giáo tôn thờ nhất,
chính là cái cách mạng lên án và đánh đổ. Hồ Chí Minh không thể chấp nhận lòng
trung thành tuyệt đối của Nhân dân bị áp bức đối với chính kẻ áp bức mình là
nhà vua và chế độ phong kiến, mà là trung thành với sự nghiệp cách mạng của Nhân
dân, lên án chế độ phong kiến. Điều sâu xa trong mối quan hệ đạo đức với chính
trị chính là Hồ Chí Minh đã lật ngược học thuyết Nho giáo, đưa quần chúng Nhân
dân chỉ là tầng lớp thấp kém đáng khinh rẻ, cần được chăn dắt theo quan niệm
của Nho giáo lên địa vị người chủ của đất nước, thực hiện quyền dân chủ của
quần chúng.
Thắng lợi của cách mạng Việt Nam
được tạo nên bởi một tư tưởng lớn, đồng thời là đạo đức lớn. Nhiều luận điểm,
mệnh đề trong di sản Hồ Chí Minh vừa là chính trị vừa là đạo đức, như “nước lấy
dân làm gốc”; “chúng ta thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước,
nhất định không chịu làm nô lệ”; “không có việc gì khó, chỉ sợ lòng không bền,
đào núi và lấp biển, quyết chí ắt làm nên”, v.v..
Ý thức tôn trọng Nhân dân ở khía
cạnh đạo đức cần phải khai thác ở việc coi trọng, đề cao nhân dân như Hồ Chí
Minh đã chỉ ra: “Ý dân là ý trời. Làm đúng ý nguyện của dân thì ắt thành. Làm
trái ý nguyện của dân thì ắt bại”.
Tôn trọng Nhân dân trong đạo đức Hồ Chí Minh là đề cao ý dân, sức dân, bởi “dễ
mười lần không dân cũng chịu. Khó trăm lần dân liệu cũng xong”. Vì vậy, “đối
với dân ta đừng có làm điều gì trái ý dân. Dân muốn gì, ta phải làm nấy”.
Người yêu cầu cán bộ, đảng viên hết lòng, hết sức phục vụ Nhân dân, yêu kính
Nhân dân, thật sự tôn trọng Nhân dân.
Đạo đức nói chung, liên quan đến
tôn trọng Nhân dân nói riêng thì phải nêu gương về trong sạch, đề cao chữ Liêm. Theo Hồ Chí Minh, đạo đức về tôn
trọng Nhân dân là không xâm phạm đến Nhân dân, một trong những biểu hiện rõ
nhất là thực hành chữ Liêm. Liêm là
trong sạch, không tham lam, tham ô, tham nhũng. Hồ Chí Minh chỉ ra rằng “những
người ở các công sở, từ làng cho đến Chính phủ Trung ương, đều dễ tìm dịp phát
tài, hoặc xoay tiền của Chính phủ, hoặc khoét đục nhân dân… Vì vậy, những người
trong công sở phải lấy chữ Liêm làm đầu”.
Liêm thì phải đi với Kiệm, có kiệm
mới liêm được, vì xa xỉ mà sinh ra tham lam. Tôn trọng Nhân dân là trách nhiệm
của Đảng, Chính phủ, cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, những người “ăn
lương của dân, làm việc cho dân, phải được dân tin cậy”. Vì vậy, những người
làm trong các công sở phải làm gương cho dân bắt chước. “Những người trong các
công sở đều có nhiều hoặc ít quyền hành. Nếu không giữ đúng Cần, Kiệm, Liêm,
Chính thì dễ trở nên hủ bại, biến thành sâu mọt của dân”.
Đã là sâu mọt, khoét đục - nhất là
“có quyền mà thiếu lương tâm là có dịp đục khoét, có dịp ăn của đút, có dịp “dĩ
công vi tư” -
thì không thể gọi là trọng dân. Vì vậy, “cán bộ phải thực hành chữ LIÊM trước,
để làm kiểu mẫu cho dân”.
-
Đạo đức Hồ Chí Minh về phát huy dân chủ. Dân chủ như đã bàn đến, được hiểu
ngắn gọn: dân là chủ và dân làm chủ. Từ chỗ nâng cao dân trí, bồi dưỡng ý thức,
năng lực làm chủ, phát triển văn hóa chính trị và tính tích cực công dân, khuyến
khích Nhân dân tham gia vào công việc của Đảng, Chính phủ, thì một điều quan
trọng là tạo điều kiện cho dân “dùng quyền dân chủ của mình, dám nói, dám làm”.
Nhận thức khoa học và giải quyết
tốt mối quan hệ giữa cán bộ và lãnh đạo với Nhân dân trong chế độ dân chủ là
một nội dung trọng yếu của đạo đức trong phát huy dân chủ. Sự vi phạm đạo đức
về mặt dân chủ có nhiều nguyên nhân, trong đó nổi lên là nhận thức không đúng tư
tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của cán bộ và lãnh đạo, dẫn đến độc quyền, mệnh
lệnh, áp đặt kiểu “quan chủ”. Người yêu cầu cán bộ, đảng viên nắm chắc quan
điểm giai cấp, đi đúng đường lối quần chúng, thành tâm học hỏi quần chúng, kiên
quyết dựa vào quần chúng, phát động quần chúng thực hiện chủ trương, chính sách
của Đảng, Nhà nước. Phải khiêm tốn, gần gũi quần chúng, không được kiêu ngạo;
phải thực sự cầu thị, không được chủ quan.
Hồ Chí Minh nhiều lần chỉ rõ “làm
cán bộ tức là suốt đời làm đày tớ trung thành của nhân dân. Mấy chữ a,b,c này
không phải ai cũng thuộc đâu, phải học mãi, học suốt đời mới thuộc được”.
Về tư cách người đảng viên, lãnh đạo, Người nói: “Mỗi người đảng viên, mỗi
người cán bộ từ trên xuống dưới đều phải hiểu rằng: Mình vào Đảng để làm đày tớ cho nhân dân. Bác nhấn mạnh: Làm đày tớ
nhân dân chứ không phải làm “quan”nhân dân,
không ra lệnh, ra oai, không làm quan cách mạng. Quan điểm “mỗi đảng viên và
cán bộ phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của
nhân dân” cần được hiểu đích cuối cùng là phục vụ nhân dân. Bởi vì, “lãnh đạo
là làm đày tớ nhân dân và phải làm cho tốt”.
Hồ Chí Minh giải thích chế độ dân chủ và Đảng lãnh đạo rất rõ ràng: “Chế độ ta
là chế độ dân chủ, nghĩa là nhân dân làm chủ. Đảng ta là Đảng lãnh đạo, nghĩa
là tất cả các cán bộ, từ trung ương, đến khu, đến tỉnh, đến huyện, đến xã, bất
kỳ ở cấp nào và ngành nào - đều phải là người đày tớ trung thành của nhân dân”.
Trong khi đề cao đạo đức về ý thức
tôn trọng Nhân dân, phát huy dân chủ, Hồ Chí Minh nhấn mạnh cần tẩy sạch bệnh
quan liêu mệnh lệnh. Bởi vì nguyên nhân của bệnh ấy là do nhiều cán bộ ta xa nhân
dân, nên không hiểu biết tâm lý, nguyện vọng của nhân dân. Khinh nhân dân, cho
là “dân ngu khu đen”, bảo sao làm vậy, không hiểu được chính trị, lý luận cao
xa như mình”;
“cho dân là dốt không biết gì, mình là thông thái tài giỏi”.
Phát huy quyền làm chủ của Nhân dân
là phát huy quyền của người dân về mọi mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, giáo
dục, chăm sóc sức khỏe...; phải quan tâm phát triển năng lực, tiềm năng của mọi
người dân.
Sợ Nhân dân, khi có sai lầm, khuyết
điểm thì sợ Nhân dân phê bình mình. Không tin cậy Nhân dân, họ quên rằng không
có lực lượng Nhân dân, thì việc nhỏ mấy, dễ mấy làm cũng không xong, có lực lượng
Nhân dân, thì việc to mấy, khó mấy làm cũng được. Không hiểu biết Nhân dân, họ quên
rằng Nhân dân cần trông thấy lợi ích thiết thực, không thể lý luận suông, chính
trị suông. Không yêu thương Nhân dân, họ chỉ biết đòi hỏi Nhân dân, không thiết
thực giúp đỡ Nhân dân, thậm chí có nơi cán bộ lừa phỉnh dân, dọa nạt dân
-
Đạo đức Hồ Chí Minh về chăm lo đời sống Nhân dân. Hồ Chí Minh quan tâm hàng
đầu, một cách rất nhất quán về đạo đức. Người để lại cho chúng ta nhiều phẩm
chất đạo đức quý báu, cao nhất, cốt lõi là chí công vô tư, tức là nêu cao chủ
nghĩa tập thể, trừ bỏ chủ nghĩa cá nhân. Điểm xuất phát tiến đến chí công vô tư
là “lòng mình chỉ biết vì Đảng, vì Tổ quốc, vì đồng bào”, làm cán bộ, đảng viên
là phải “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”.
Đạo đức Hồ Chí Minh về chăm lo đời
sống Nhân dân thể hiện rất rõ ở quan điểm khi Người nói về một trong những điều
tóm tắt, thì đạo đức cách mạng là: “Đặt lợi ích của Đảng và của nhân dân lao
động lên trên, lên trước lợi ích riêng của cá nhân mình. Hết lòng hết sức phục
vụ nhân dân. Hồ Chí Minh quan niệm phẩm chất cao đẹp nhất của người cách mạng
là “yêu nước, thương dân”, thương nhân loại bị áp bức, bóc lột, lấy điều đó là
động cơ để làm cách mạng giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp. Vì Đảng, vì
dân mà đấu tranh quên mình, gương mẫu trong mọi việc”.
Theo Hồ Chí Minh, người cách mạng phải đứng vững trên lập trường của giai cấp
công nhân, để hết lòng hết sức đấu tranh cho chủ nghĩa xã hội, Ngoài lợi ích
của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, Đảng ta không có lợi ích gì khác.
Theo Hồ Chí Minh, phận sự của đảng viên và cán bộ là phải tổ chức Nhân dân,
lãnh đạo Nhân dân để giải phóng Nhân dân và và nâng cao sinh hoạt, đời sống
chính trị, kinh tế, văn hóa cho Nhân dân. Chăm lo đời sống nhân dân là sứ mệnh
của Đảng ngay từ khi ra đời. “Đảng không phải là một tổ chức để làm quan phát
tài. Nó phải làm tròn nhiệm vụ giải phóng dân tộc, làm cho Tổ quốc giàu mạnh,
đồng bào sung sướng”.
Đạo đức là một nét đặc trưng bản
chất của chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, thể hiện rõ nhất về đạo đức chăm lo đời sống
nhân dân là trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa xã hội trước hết
nhằm làm cho Nhân dân lao động thoát nạn bần cùng, làm cho mọi người có công ăn
việc làm, được ấm no và sống một đời hạnh phúc. Mục tiêu của chủ nghĩa xã hội
là giải phóng Nhân dân lao động khỏi nghèo nàn, lạc hậu. Nêu câu hỏi mục đích
của chủ nghĩa xã hội là gì?, Hồ Chí Minh trả lời: “Nói một cách giản đơn và dễ
hiểu là: Không ngừng nâng cao đời sống
vật chất và tinh thần của nhân dân, trước hết là nhân dân lao động”.
Từ mục tiêu tổng quát, Hồ Chí Minh diễn đạt thành những tiêu chí cụ thể: “Chủ
nghĩa xã hội là làm sao cho nhân dân đủ ăn, đủ mặc, ngày càng sung sướng, ai
nấy được đi học, ốm đau có thuốc, già không lao động được thì nghỉ, những phong
tục tập quán không tốt dần dần được xóa bỏ… Tóm lại, xã hội ngày càng tiến, vật
chất ngày càng tăng, tinh thần ngày càng tốt, đó là chủ nghĩa xã hội”.
Cả cuộc đời mình, Hồ Chí Minh không
chỉ ra vào chốn tù tội, xông pha hiểm nghèo, ẩn nấp nơi núi non vì mục đích phấn
đấu cho quyền lợi của Tổ quốc và hạnh phúc của Nhân dân, mà Người còn lo toan
đến tương, cà, mắm, muối cho dân. Hồ Chí Minh dạy cán bộ, đảng viên tu dưỡng
đạo đức không chỉ ở những việc lớn, mà phải quan tâm đến cuộc sống hằng ngày của
Nhân dân, từ cái ăn, cái mặc, đi lại, học hành, chữa bệnh. Phải biết tiết kiệm
từng đồng tiền, hạt gạo của dân. Người cho rằng khi đất nước còn khó khăn, nhân
dân còn thiếu thốn thì Chủ tịch nước mặc áo vá là có phúc cho dân tộc. Sau Cách
mạng Tháng Tám năm 1945, đất nước phải trải qua nạn đói khủng khiếp, Hồ Chí
Minh chủ trương tăng gia sản xuất, mỗi người mười ngày nhịn ăn một bữa để góp
gạo cứu đói và Người cũng đổ lon gạo của mình vào hũ tiết kiệm như mọi người
dân.
Trăn trở về đời sống Nhân dân,
trong Di chúc, Người không quên nhắc
nhở Đảng, Nhà nước “chớ nên tổ chức điếu phúng linh đình, để khỏi lãng phí thì
giờ và tiền bạc của nhân dân”.
3. Phong cách Hồ Chí Minh tôn trọng Nhân dân, phát huy dân chủ, chăm lo
đời sống Nhân dân
-
Phong cách Hồ Chí Minh tôn trọng Nhân dân xuất phát một cách tự nhiên từ nhân
cách, cuộc đời, cái tâm, cái đức vì nước, vì dân của Người. Hồ Chí Minh là con
người sinh ra từ Nhân dân, sống giữa lòng dân và cuối đời lại muốn trở về với Nhân
dân, làm một cái nhà nho nhỏ, nơi có non xanh nước biếc, câu cá trồng hoa, sớm
chiều làm bạn với các cụ già hái củi, trẻ em, chăn trâu, không dính líu gì với
vòng danh lợi. Người thường nói không có Nhân dân thì không có Bác. Hồ Chí Minh
có trái tim đập cùng nhịp, có tâm hồn biết xót xa đến thân phận của những người
cùng khổ, của Nhân dân. Chính nhân cách lớn và cuộc đời oanh liệt của Hồ Chí
Minh đã tạo ra phong cách tôn trọng Nhân dân ở Người.
Đứng ở đỉnh cao quyền lực 24 năm từ
năm 1945 đến năm 1969 nhưng Hồ Chí Minh không bao giờ hành xử như một người có
quyền. Người luôn luôn coi Nhân dân là chủ, giữ địa vị cao nhất, còn mình chỉ
là người đày tớ trung thành của dân, phục vụ Nhân dân. Khi được Quốc hội giao
giữ vị trí Chủ tịch Chính phủ, Người coi việc “phải gánh chức Chủ tịch là do
đồng bào ủy thác”, đảm trách nhiệm vụ Chủ tịch là thực hiện mệnh lệnh của Tổ
quốc và Nhân dân. Vì vậy, khi nào “đồng bào cho tôi lui, thì tôi rất vui lòng
lui”. Đọc bản Tuyên ngôn độc lập đến
giữa chừng, Người dừng lại hỏi: “Tôi nói đồng bào nghe rõ không?”” thật bất ngờ
nhưng cũng thật dễ hiểu, vì đó là bản tính bình dị, hồn nhiên của Người luôn đề
cao đồng bào, không đặt mình đứng trên Nhân dân. Về thăm lại Pác Bó, Cao Bằng
năm 1961, thấy đồng bào tổ chức đón tiếp, Người nói: “Tôi về thăm nhà mà sao
lại phải đón tôi!”. Kêu gọi kháng chiến, kiến quốc, xây dựng đất nước, Hồ Chí
Minh thường đặt “đồng bào” lên vị trí hàng đầu. Người yêu cầu cán bộ, đảng viên
phải “từ trong quần chúng, trở lại nơi quần chúng”, và phải “theo đúng đường
lối nhân dân”.
Phong cách tôn trọng Nhân dân của
Hồ Chí Minh thể hiện nhiều cách. Người chú ý lắng nghe ý kiến và giải quyết
những kiến nghị chính đáng của quần chúng, sẵn sàng tiếp thu phê bình của quần
chúng và hoan nghênh quần chúng phê bình mình. Theo Hồ Chí Minh, lãnh đạo quần
chúng, đồng thời không ngừng học hỏi quần chúng, vì “quần chúng chính là những
người chịu đựng cái kết quả của sự lãnh đạo của ta”; tôn trọng quyền làm chủ
của quần chúng theo tinh thần lãnh đạo là đày tớ, quần chúng là chủ. Người
không bao giờ tự đặt mình cao hơn người khác để đòi hỏi một sự tâng bốc, suy
tôn; không bao giờ tỏ ra vĩ đại để đòi hỏi Nhân dân thừa nhận mình là vĩ đại.
Hồ Chí Minh có cách giao tiếp hoàn toàn mới giữa lãnh tụ và quần chúng Nhân
dân, thể hiện thái độ yêu thương, quý mến, trân trọng con người. Người có sự độ
lượng, khoan dung, nâng con người lên, chứ không phải hạ thấp, vùi dập con
người.
Hồ Chí Minh yêu trẻ, kính già,
trọng phụ nữ. Đón các cháu thiếu niên, nhi đồng, Người nói với các đồng chí
phục vụ rằng “ở nhà các cháu là con, là cháu của các chú, nhưng vào đây các
cháu là khách của Bác”. Nhiều chuyện kể cho ta biết về phong cách Hồ Chí Minh tôn
trọng phụ nữ như việc Người quan tâm một tỷ lệ nữ thích đáng trong lãnh đạo, số
lượng phụ nữ dự các hội nghị và bao giờ Người cũng mời đại biểu phụ nữ lên ngồi
những hàng ghế trên. Trong Di chúc,
Người dặn Đảng và Chính phủ cần phải có kế hoạch thiết thực bồi dưỡng, cất nhắc
và giúp đỡ để ngày thêm nhiều phụ nữ phụ trách mọi công việc kể cả công việc
lãnh đạo. Những điều đó toát lên một tư tưởng lớn về một cuộc cách mạng đưa đến
quyền bình đẳng thật sự cho phụ nữ. Hồ Chí Minh kính trọng người già với một
thái độ khiêm nhường thật sự, “vô tiền khoáng hậu”, thể hiện một nhân cách văn
hóa. Là một lãnh tụ được tôn vinh là “cha già dân tộc”, được các tầng lớp nhân
dân, cả bè bạn thế giới gọi là Bác Hồ, nhưng Hồ Chí Minh vẫn xưng hô mình là
cháu đối với cụ Phùng Lục 90 tuổi, một phụ lão cứu quốc ở huyện Ứng Hòa, Hà
Đông (nay thuộc thành phố Hà Nội) đã đem món tiền 500 đồng kính dâng Chủ tịch
để sung vào Quỹ kháng chiến kiến quốc vào hồi tháng 2-1948.
-
Phong cách Hồ Chí Minh phát huy dân chủ xuất phát từ chỗ tôn trọng Nhân dân,
đề cao vai trò, vị trí của Nhân dân. Dù bận rất nhiều công việc đối nội, đối
ngoại, nhưng về với dân, đến với quần chúng, những người “không quan trọng” để
học dân, hỏi dân, hiểu dân, nghe dân nói, thấy dân làm, để nắm vững dân tình,
dân tâm, dân ý là nhu cầu thường trực của Bác. Người ra thao trường cùng bộ đội,
“chống gậy lên non xem trận địa”, đến nhà máy, công trường, hầm mỏ, nông
trường, hợp tác xã, trường học, bệnh viện. Người đến nhà giữ trẻ, lớp mẫu giáo,
ra đồng ruộng, thăm nhà ở công nhân, cán bộ bình thường v.v.. Hàng trăm lần Hồ
Chí Minh đi về cơ sở không đơn thuần chỉ là tác phong quần chúng, mà chứa đựng trong
đó là phong cách phát huy dân chủ. Bởi vì Người đến với quần chúng là để lắng
nghe và thấu hiểu, thấu cảm cuộc sống của mọi tầng lớp Nhân dân miền ngược,
miền xuôi, nông thôn, thành thị. Người muốn nghe được tiếng dân, đi vào lòng Nhân
dân, hiểu được nhịp đập của cuộc sống xung quanh.
Phong cách ấy làm cho lãnh tụ và
quần chúng hòa nhập với nhau trong sự đồng cảm sâu sắc nhất. Từ đó mọi người có
thể nói hết những suy nghĩ trăn trở của mình, còn Người có cơ sở để giải quyết
nguyện vọng, kiến nghị chính đáng của Nhân dân . Người nói: “Cán bộ đi về hợp
tác xã không phải chỉ đi vào nhà chủ nhiệm để có chỗ ở sạch sẽ và có cơm nước
đàng hoàng mà phải đi vào nhân dân”,
phải “ba cùng”. Phê bình thói “quan trên về làng”,
Hồ Chí Minh yêu cầu “phải làm sao cho mỗi khi cán bộ về làng, nhân dân niềm nở
vỗ vai, mời “anh” uống nước mới tốt. Nếu cán bộ về mà dân trải chiếu hoa, bắt
gà làm cơm là không được. Bao giờ dân coi cán bộ là người của dân, đối với cán
bộ không còn “lạy cụ ạ” thì dân mới dám nói, dám phê bình”.
Cùng với thực hiện nguyên tắc tập
trung dân chủ, phát huy dân chủ trong nội bộ Đảng với cách làm việc tập thể,
dân chủ, tôn trọng tập thể, phát huy sức mạnh, cái thông minh của tập thể, phong
cách phát huy ý thức dân chủ của Hồ Chí Minh còn thể hiện rất rõ đối với quần
chúng, phát huy tinh thần làm chủ tập thể của mọi người. Khi bàn cách làm và
xuất bản loại sách “Người tốt việc tốt” với một số cán bộ, Người nói: “Bác muốn
bàn luận dân chủ, các chú có ý kiến gì trái với Bác thì cứ cãi, nhất trí rồi về
làm mới tốt được. Không nên: Bác nói gì, các chú cũng cứ ghi vào sổ mà trong
bụng thì chưa thật rõ, rồi các chú không làm, hay làm một cách qua loa”.
Trên cơ sở nhận thức dân chúng khôn
khéo, hăng hái, anh hùng, Hồ Chí Minh căn dặn mỗi cán bộ khi thực hiện phong
cách phát huy dân chủ phải bắt đầu từ mỗi một khẩu hiệu, mỗi một công việc, mỗi
một chính sách của chúng ta, đều phải dựa vào ý kiến và kinh nghiệm của dân
chúng, phải nghe theo nguyện vọng của dân chúng. Muốn hiểu biết, học hỏi dân chúng
thì phong cách của người cán bộ phải thể hiện sự nhiệt thành, quyết tâm, khiêm
tốn, chịu khó.
Để thực hiện phong cách dân chủ,
cần phải hiểu “nếu quần chúng nói mười điều mà chỉ có một vài điều xây dựng,
như thế vẫn là quý báu và bổ ích. Uy tín của người lãnh đạo là ở chỗ mạnh dạn
thực hiện tự phê bình và phê bình, biết học hỏi quần chúng, sửa chữa khuyết
điểm, để đưa công việc ngày càng tiến bộ chứ không phải ở chỗ giấu giếm khuyết
điểm và e sợ quần chúng phê bình”.
Một trong những kinh nghiệm quý trong thực hiện phong cách phát huy dân chủ là
“cơ quan nào mà trong lúc khai hội, cấp trên để cho mọi người nói hết, cái đúng
thì nghe, cái không đúng thì giải thích, sửa chữa, ở những cơ quan đó mọi người
đều hoạt bát mà bệnh “thì thầm thì thào” cũng hết”.
Người chỉ rõ: “để phát huy ưu điểm, điều quan trọng nhất là để cho dân nói. Dân
biết nhiều việc mà các cấp lãnh đạo không biết. Việc gì cũng phải bàn với dân;
dân sẽ có ý kiến hay”.
Theo Hồ Chí Minh, dân chủ, sáng
kiến, hăng hái, ba điều đó rất quan hệ với nhau. Có dân chủ mới làm cho cán bộ
và quần chúng đề ra sáng kiến. Những sáng kiến đó được khen ngợi, thì những
người đó càng thêm hăng hái và người khác cũng học theo.
-
Phong cách Hồ Chí Minh chăm lo đời sống cho Nhân dân: trên cơ sở nhận thức
“dân dĩ thực vi thiên”, nghĩa là dân lấy ăn làm trời, và “có thực mới vực được
đạo”, nghĩa là không có ăn thì chẳng làm được việc gì cả, tư tưởng và phong
cách Hồ Chí Minh thể hiện đậm nét việc chăm lo đời sống Nhân dân. Trong sự
nghiệp kiến thiết chủ nghĩa xã hội, Người cho rằng “hễ còn có một người Việt
Nam bị bóc lột, bị nghèo nàn, thì Đảng vẫn đau thương, cho đó là vì mình chưa
làm tròn nhiệm vụ”.
Người nói: “một ngày mà Tổ quốc chưa thống nhất, đồng bào còn chịu cực khổ là
một ngày tôi ăn không ngon, ngủ không yên”, Người biến tình thương thành trách
nhiệm của bản thân.
Theo Người, Đảng và mỗi cán bộ,
đảng viên phải gần gũi Nhân dân, quan tâm đến những việc nhỏ cho đời sống hằng
ngày của Nhân dân. “Chính sách của Đảng và Chính phủ là phải hết sức chăm nom đến đời sống của nhân dân. Nếu dân đói, Đảng
và Chính phủ có lỗi; nếu dân rét là Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân dốt là
Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân ốm là Đảng và Chính phủ có lỗi. Vì vậy, cán
bộ Đảng và chính quyền từ trên xuống dưới, đều phải hết sức quan tâm đến đời
sống của nhân dân. Phải lãnh đạo, tổ chức, giáo dục nhân dân tăng gia sản xuất
và tiết kiệm. Dân đủ ăn đủ mặc thì những chính sách của Đảng và Chính phủ đưa
ra sẽ dễ dàng thực hiện. Nếu dân đói, rét, dốt, bệnh thì chính sách của ta dù có
hay mấy cũng không thực hiện được”.
Hồ Chí Minh luôn luôn gương mẫu,
thực hiện nói đi đôi với làm, “gần dân” thì phải tăng cường tiếp xúc với dân.
Khi đi thăm dân, Người không muốn tiệc tùng tốn kém theo kiểu “khách ba, chủ
nhà bảy” để mang tiếng với dân, Người cũng phê bình việc liên hoan chè chén, lu
bù còn phổ biến ở nhiều địa phương, như bắt đầu cấy cũng liên hoan, cấy xong
cũng liên hoan, rồi huyện về điều tra cũng liên hoan, tiễn cán bộ huyện đi cũng
liên hoan, cải tiến cũng liên hoan, nghe nói họp bàn về tiết kiệm cũng liên
hoan mấy con lợn… Bác thường kể câu chuyện “có nơi Bác về thăm, cán bộ làm thịt
cả một con bò và bảo rằng “để chiêu đãi Hồ Chủ tịch”; thế là họ “ăn” cả Hồ Chủ
tịch. Phải tích cực sửa chữa”.
Sau hơn 30 năm đổi mới, nhiều vấn đề nhức
nhối như “ăn không thiếu một cái gì của dân” chúng ta đang chứng kiến hiện nay,
đã được Hồ Chí Minh chỉ ra một cách cụ thể từ những năm năm mươi của thế kỷ trước.
Nói chuyện tại hội nghị sản xuất cứu đói, Người chỉ rõ: “Khi thiếu gạo, cán bộ
không biết tổ chức sản xuất tự cứu, không biết tổ chức nhân dân giúp đỡ nhau.
Không biết tổ chức trưng vay. Khi nhận được gạo, lại còn cấp phát tràn lan, chậm
chạp, gạo đến người đói chậm, người không đói cũng nhận được gạo. Quá tệ hơn nữa
là gạo của Chính phủ giúp dân, chừng một nửa đến tay dân đói, còn một nửa bị
tham ô, lãng phí”.
Theo Hồ Chí Minh, tham nhũng là tội ác với dân,
cần nghiêm trị tất cả những kẻ bất liêm, bất kể chúng là ai, ở cương vị nào.
II. CHỦ TRƯƠNG, NHIỆM
VỤ VÀ GIẢI PHÁP VỀ XÂY DỰNG Ý THỨC TÔN
TRỌNG NHÂN DÂN, PHÁT HUY DÂN CHỦ, CHĂM LO ĐỜI SỐNG NHÂN DÂN TRONG GIAI ĐOẠN
HIỆN NAY
1. Chủ trương của Đảng
a) Về xây dựng
ý thức tôn trọng Nhân dân:
- Quán triệt sâu sắc tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí
Minh: "Lực lượng của dân rất to. Việc dân vận rất quan trọng. Dân vận kém
thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng thành công". Cách mạng
là sự nghiệp của nhân dân, do nhân dân, vì Nhân dân; Nhân dân là chủ, Nhân dân
làm chủ; tin tưởng ở trí tuệ của Nhân dân, tin vào sức mạnh và lực lượng của
Nhân dân để làm cách mạng.
- Đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống
tham nhũng, lãng phí, quan liêu, hách dịch, cửa quyền trong đội ngũ cán bộ, đảng
viên.
- Xây dựng và tổ chức thực hiện
có hiệu quả cơ chế phát huy vai trò của Nhân dân tham gia xây dựng Đảng.
- Xây dựng đội ngũ đảng viên thật
sự tiên phong, gương mẫu, trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân, có trách nhiệm
cao trong công việc, có bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức cách mạng, ý thức
tổ chức kỷ luật và năng lực hoàn thành nhiệm vụ, vững vàng trước mọi khó khăn,
thách thức, phấn đấu cho mục tiêu, lý tưởng của Đảng.
- Tiếp tục đổi
mới, nâng cao hiệu quả công tác dân vận, tăng cường quan hệ mật thiết giữa Đảng
với Nhân dân; có kế hoạch thường xuyên tìm hiểu tình hình đời sống,
tâm tư, nguyện vọng của Nhân dân để có chủ trương, biện pháp xử lý đúng đắn, kịp
thời.
- Củng cố vững chắc niềm tin của Nhân dân đối với
Đảng, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc và mối quan hệ mật thiết giữa Đảng
với Nhân dân; tập hợp, vận động Nhân dân thực hiện tốt các chủ trương của Đảng
và chính sách, pháp luật của Nhà nước; phát huy sức mạnh to lớn của Nhân dân, tạo
thành phong trào cách mạng rộng lớn xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
- Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng về công
tác dân vận trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa và hội nhập quốc tế. Đội ngũ cán bộ, đảng viên phải thật sự tin dân, trọng
dân, gần dân, hiểu dân, học dân, dựa vào dân, có trách nhiệm với dân. Giải quyết
kịp thời, có hiệu quả những bức xúc, những kiến nghị chính đáng của Nhân dân và
khiếu nại, tố cáo của công dân.
b) Về phát
huy dân chủ:
- Tiếp tục phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo
đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Mọi đường lối, chủ trương của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước phải xuất phát từ nguyện vọng, quyền
và lợi ích chính đáng của nhân dân, được nhân dân tham gia ý kiến. Dân chủ phải
được thực hiện đầy đủ, nghiêm túc trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Bảo đảm để nhân dân tham gia ở tất cả các khâu của quá trình đưa ra những quyết
định liên quan đến lợi ích, cuộc sống của nhân dân, từ nêu sáng kiến, tham gia
thảo luận, tranh luận đến giám sát quá trình thực hiện. Tập trung xây dựng những
văn bản pháp luật liên quan trực tiếp đến quyền làm chủ của Nhân dân.
- Thể chế hóa và nâng cao chất lượng các hình thức
thực hiện dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện. Thực hiện quyền con người, quyền
và nghĩa vụ cơ bản của công dân, theo tinh thần của Hiến pháp năm 2013; gắn quyền
với trách nhiệm, nghĩa vụ, đề cao đạo đức xã hội. Tiếp tục thực hiện tốt dân chủ
ở cơ sở; hoàn thiện hệ thống pháp luật, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con
người, quyền và nghĩa vụ của công dân.
- Để thực hiện dân chủ trong xã hội, trước hết
phải bảo đảm phát huy dân chủ trong Đảng là hạt nhân để phát huy đầy đủ dân chủ
trong xã hội. Đẩy mạnh dân chủ hóa xã hội để phát huy quyền làm chủ của nhân
dân, vai trò chủ động, sáng tạo của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân.
Tổ chức thực hiện tốt Quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc
và các tổ chức chính trị - xã hội; Quy định về việc Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức
chính trị - xã hội và nhân dân góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền; Quy định
về giám sát đảng viên là cán bộ thuộc diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý và
các quy định, quy chế khác.
- Các cấp, các ngành, địa phương, đơn vị tập trung giải
quyết những bức xúc, nguyện vọng chính đáng của Nhân dân, nhất là những vấn đề
liên quan trực tiếp đến đời sống, việc làm, đền bù thu hồi đất đai, tai nạn
giao thông, tệ nạn xã hội. Trong xây dựng thể chế, chính sách, cần quán triệt
và thực hiện nghiêm nguyên tắc: mọi chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật
của Nhà nước phải thuận với lòng dân, xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chính
đáng của Nhân dân. Chú trọng cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của Nhân
dân, nhất là điều kiện sống, lao động, học tập, sáng tạo, nghỉ ngơi, chăm sóc sức
khỏe.
- Quan tâm điều chỉnh hài hòa lợi ích giữa các giai tầng
xã hội, các vùng miền, các lĩnh vực; gắn nghĩa vụ với quyền lợi, cống hiến với
hưởng thụ, lợi ích cá nhân với lợi ích tập thể và cộng đồng, xã hội.
- Xử lý nghiêm minh những vụ việc tiêu cực, tham
nhũng; giải quyết dứt điểm những vụ việc khiếu kiện đông người phức tạp, kéo
dài.
- Phát huy dân chủ phải đi liền với tăng cường
pháp chế, đề cao trách nhiệm công dân, giữ vững kỷ luật, kỷ cương và đề cao đạo
đức xã hội. Phê phán những biểu hiện dân chủ cực đoan, dân chủ hình thức. Xử lý
nghiêm những hành vi lợi dụng dân chủ để làm mất an ninh chính trị, trật tự, an
toàn xã hội và những hành vi vi phạm quyền dân chủ và quyền làm chủ của Nhân
dân.
c) Chăm lo đời sống cho Nhân dân:
- Động lực thúc đẩy phong trào Nhân dân là phát huy
quyền làm chủ, đáp ứng lợi ích thiết thực của Nhân dân; kết hợp hài hòa các lợi
ích; quyền lợi phải đi đôi với nghĩa vụ công dân; chú trọng lợi ích trực tiếp của
người dân; huy động sức dân phải đi đôi với bồi dưỡng sức dân; những gì có lợi
cho dân thì hết sức làm, những gì có hại cho dân thì hết sức tránh.
- Tiếp tục hoàn thiện chính sách an sinh xã hội
phù hợp với quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Mở rộng đối tượng và nâng
cao hiệu quả của hệ thống an sinh xã hội đến mọi người dân; tạo điều kiện để trợ
giúp có hiệu quả cho tầng lớp yếu thế, dễ tổn thương hoặc những người gặp rủi
ro trong cuộc sống.
- Phát triển và thực hiện tốt các chính sách bảo
hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm tai nạn lao động,... Chuyển từ hỗ
trợ nhân đạo sang bảo đảm quyền an sinh xã hội của công dân.
- Đổi mới chính sách giảm nghèo theo hướng tập
trung, hiệu quả và tiếp cận phương pháp đo lường nghèo đa chiều nhằm bảo đảm an
sinh xã hội cơ bản và tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản.
- Tổ chức tốt hơn việc cung cấp các dịch vụ xã hội
cơ bản thiết yếu.
- Thực hiện tốt các chính sách hỗ trợ nhà ở cho
các đối tượng chính sách, người nghèo, Nhân dân sống ở vùng sâu, vùng xa, vùng
khó khăn; phát triển nhà ở xã hội cho người thu nhập thấp, công nhân khu công
nghiệp, khu chế xuất và sinh viên,...
- Phát triển đa dạng các hình thức từ thiện, đẩy
mạnh phong trào toàn dân tham gia giúp đỡ những người yếu thế.
- Coi trọng chăm sóc sức khoẻ Nhân dân, công tác
dân số - kế hoạch hóa gia đình, bảo vệ và chăm sóc sức khoẻ bà mẹ, trẻ em; xây
dựng gia đình hạnh phúc.
2. Tiếp tục bổ sung, hoàn thiện hệ thống
chính sách, pháp luật
- Kịp thời thể
chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng thành chính sách, pháp luật phù hợp với
thực tiễn và đáp ứng lợi ích, nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Tiếp tục thể
chế hóa, cụ thể hóa mối quan hệ "Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân
làm chủ", nhất là nội dung Nhân dân làm chủ và phương châm "Dân biết,
dân bàn, dân làm, dân kiểm tra".
-
Đảng và Nhà nước tiếp tục quan tâm bổ sung, hoàn thiện hệ thống chính sách,
pháp luật, quy chế bảo đảm phát huy dân chủ, quyền làm chủ của Nhân dân, tôn trọng
Nhân dân, chăm lo đời sống của Nhân dân.
-
Thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI về “Một số vấn
đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” và Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về
“tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng
chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến" và
"tự chuyển hóa" trong nội bộ”. Trong đó, quan tâm thực hiện tốt nhiều
nội dung sau đây: “Tăng cường công tác dân vận của Đảng và của chính quyền;
phát huy vai trò giám sát của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội,
của nhân dân, báo chí và công luận trong đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi suy
thoái, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong cán bộ, đảng
viên. Thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả phương châm dân biết, dân bàn, dân làm,
dân kiểm tra. Trước mắt, tập trung giải quyết kịp thời, dứt điểm những vấn đề bức
xúc của nhân dân. Nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của Quốc hội và
Hội đồng nhân dân các cấp, bảo đảm mọi chính sách, pháp luật của Nhà nước phải
theo đúng Cương lĩnh, đường lối, chủ trương của Đảng và phải xuất phát từ nguyện
vọng chính đáng, quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân. Người đứng đầu cấp
ủy, chính quyền các cấp phải thực hiện nghiêm túc việc tiếp dân định kỳ hoặc đột
xuất để tiếp nhận thông tin, lắng nghe, đối thoại trực tiếp và xử lý những phản
ánh, kiến nghị của nhân dân, nhất là những biểu hiện suy thoái, "tự diễn
biến", "tự chuyển hóa" trong cán bộ, đảng viên. Xây dựng và thực
hiện Quy định về việc lấy ý kiến đánh giá sự hài lòng của người dân đối với cơ
quan, cán bộ, công chức trực tiếp giải quyết công việc của người dân và doanh
nghiệp; có hình thức xử lý đối với những tổ chức, cá nhân có chỉ số hài lòng thấp. Xây
dựng và thực hiện cơ chế bảo vệ, khuyến khích người dân phản ánh, tố giác và
tích cực đấu tranh phòng, chống suy thoái, "tự diễn biến", "tự
chuyển hóa".
-
Tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện có kết quả Chỉ thị 05-CT/TW của
Bộ Chính trị khóa XII về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong
cách Hồ Chí Minh”. Trong đó, quyết tâm thực hiện tốt nội dung: “Đề cao trách
nhiệm nêu gương, tự giác học trước, làm theo trước để nêu gương của người đứng
đầu và cán bộ chủ chốt các cấp, của cán bộ, đảng viên trong học tập và làm theo
tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Tăng cường công tác kiểm tra, đôn đốc
việc thực hiện học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, gắn
với đánh giá, nhận xét cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức hằng năm và cả
nhiệm kỳ. Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp, đạo đức
công vụ ở từng địa phương, cơ quan, đơn vị với phương châm "sát chức năng,
nhiệm vụ, ngắn gọn, dễ nhớ, dễ thực hiện và đánh giá việc thực hiện”. Hoàn thiện
chính sách, pháp luật liên quan đến đạo đức công vụ”.
- Tổ chức thực hiện Quy định 109-QĐ/TW, ngày
03/01/2018 của Ban Bí thư khóa XII về “công tác kiểm tra của tổ chức đảng đối với
việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức của cán bộ, đảng viên” (thay thế Quy định cùng
tên số 55-QĐ/TW, ngày 10/01/2012 của Ban Bí thư khóa XI). Trong đó, có riêng một
nội dung kiểm tra “về ý thức trách nhiệm phục vụ Nhân dân bằng những việc làm
thiết thực, cụ thể; việc giải quyết các khiếu nại, tố cáo chính đáng của Nhân
dân; chống biểu hiện về sự vô cảm, quan liêu, mệnh lệnh, hách dịch, nhũng nhiễu,
gây phiền hà cho Nhân dân”.
-
Triển khai thực hiện có hiệu quả Nghị quyết số 20-NQ/TW của
Ban Chấp hành Trung ương khóa XII về “tăng
cường công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân trong tình hình
mới”. Nghị quyết xác định rõ các quan điểm: “Bảo
vệ, chăm sóc và nâng cao sức khoẻ là nghĩa vụ, trách nhiệm của mỗi người dân,
của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội, đòi hỏi sự tham gia tích cực của các
cấp ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể, các ngành, trong đó
ngành Y tế là nòng cốt”; “Đầu tư cho bảo vệ, chăm sóc và
nâng cao sức khỏe nhân dân là đầu tư cho phát triển. Nhà nước ưu tiên đầu tư
ngân sách và có cơ chế, chính sách huy động, sử dụng hiệu quả các nguồn lực để
bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân; tổ chức cung cấp dịch vụ công,
bảo đảm các dịch vụ cơ bản, đồng thời khuyến khích hợp tác công - tư, đầu tư tư
nhân, cung cấp các dịch vụ theo yêu cầu;
“mọi
người dân đều được quản lý, chăm sóc sức khỏe; được bảo đảm bình đẳng về quyền
và nghĩa vụ trong tham gia bảo hiểm y tế và thụ hưởng các dịch vụ y tế”.
Một số đối tượng
phải quan tâm chú trọng là: “bà
mẹ, trẻ em, đặc biệt là ở khu vực miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn,
biên giới, hải đảo. Quan tâm chăm sóc sức khỏe người cao tuổi, người khuyết
tật, người bị ảnh hưởng bởi hậu quả của chiến tranh và các đối tượng ưu tiên;
phát triển các mô hình chăm sóc người cao tuổi phù hợp”.
Các cấp, các ngành
có liên quan tăng cường quản lý nhà nước, xây
dựng và thực hiện các giải pháp đồng bộ nhằm phòng, chống, ngăn chặn và chấm
dứt tình trạng lợi dụng chủ trương xã hội hoá để lạm dụng các nguồn lực công
phục vụ các "nhóm lợi ích", tạo ra bất bình đẳng trong tiếp cận dịch
vụ y tế.
3. Một số nhiệm vụ, giải pháp cụ thể
a) Đối với tổ
chức đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội:
- Quán triệt đầy đủ
tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối quan điểm của Đảng, pháp luật của Nhà nước, về
"dân làm gốc"; xây dựng chương trình, kế hoạch xây dựng ý thức tôn trọng
nhân dân, phát huy dân chủ của Nhân dân, chăm lo đời sống Nhân dân trong các
ngành, địa phương, cơ quan đơn vị, coi đây là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu, là
nguồn lực để thực hiện các nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
- Tập trung chỉ đạo thực hiện Quy chế dân
chủ ở cơ sở, cải cách hành chính, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho nhân dân tự
do sản xuất, kinh doanh theo pháp luật, góp phần phát triển kinh tế, văn hóa,
xã hội, không ngừng nâng cao đời sống Nhân dân.
- Nghiêm túc triển
khai thực hiện Quyết định số 217-QĐ/TW, ngày 12/12/2013 của Bộ Chính trị khóa
XI về việc
ban hành Quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và
các đoàn thể chính trị - xã hội. Trong Quy chế nêu rõ mục đích: phát huy quyền
làm chủ của nhân dân, góp phần xây dựng Đảng, Nhà nước trong sạch, vững mạnh; bảo
đảm quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân; phát huy dân chủ, tăng cường đồng
thuận xã hội. Giám sát và phản biện xã hội phải mang tính nhân dân, tính dân chủ
xã hội chủ nghĩa, tính xây dựng, tính khoa học và thực tiễn.
-
Nhận thức sâu sắc, quán triệt và thực hiện nghiêm Quyết định số 218-QĐ/TW, ngày
12-12-2013 của Bộ Chính trị quy định về việc Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể
chính trị - xã hội và nhân dân tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền
.
-
Triển khai thực hiện có hiệu quả Quy định 124-QĐ/TW, ngày 02/02/2018 của Ban Bí
thư khóa XII về “giám sát của Mặt
trận Tổ quốc Việt
Nam,
các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân đối với việc tu dưỡng, rèn luyện đạo
đức, lối sống của người đứng đầu, cán bộ chủ chốt và cán bộ, đảng viên”. Quy định xác định rõ, chủ thể
giám sát không chỉ là Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị -
xã hội từ Trung ương đến cơ sở, mà còn là Nhân dân và Nhân dân thực hiện quyền
giám sát thông qua Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội;
phản ảnh, kiến nghị đến cấp ủy, tổ chức đảng, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ
chức chính trị - xã hội và cơ quan có thẩm quyền về những biểu hiện suy thoái về
đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên.
b) Đối với cán bộ lãnh đạo,
người đứng đầu:
- Chủ động, tích cực trong thực hiện các
chương trình, kế hoạch, mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa, bảo vệ
môi trường; phát huy sức dân, huy động Nhân dân tham gia thực hiện các mục tiêu
đề ra vì lợi ích của Nhân dân.
- Nói đi đôi với làm, tạo uy tín tốt nhất
trong nhân dân, làm gương để Nhân dân noi theo; tiền phong, gương mẫu, có trách
nhiệm và chịu trách nhiệm cao nhất.
- Thực hiện nghiêm Quy định 08-Qđi/TW,
ngày 25/10/2018 của Ban Chấp hành Trung ương khóa XII về “trách nhiệm nêu gương
của cán bộ, đảng viên, trước hết là Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy
viên Ban Chấp hành Trung ương”. Hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ
nhân dân, vì lợi ích của nhân dân, của quốc gia - dân tộc và mục tiêu, lý tưởng
cách mạng của Đảng. Không làm bất cứ việc gì có hại cho Đảng, cho đất nước và
nhân dân. Lấy ấm no, hạnh phúc và sự hài lòng của nhân dân làm mục tiêu phấn
đấu.
-
Thực hành phong cách lãnh đạo khoa học, dân chủ, sâu sát thực tiễn, hiệu quả.
-
Tích cực giải quyết dứt điểm các vấn đề phức tạp, bức xúc, tồn đọng kéo dài.
-
Nghiêm khắc với bản thân và kiên quyết chống độc đoán, chuyên quyền, quan liêu,
xa dân, thờ ơ, vô cảm trước những khó khăn, bức xúc của nhân dân.
- Nghiêm túc thực hiện yêu cầu về tiếp
xúc, trao đổi, đối thoại với Nhân dân được nêu trong Nghị quyết Trung ương 4
khóa XI về “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”: “cán bộ chủ chốt
và cán bộ dân cử các cấp phải thường xuyên tiếp xúc, đối thoại trực tiếp với
nhân dân, chủ động nắm bắt tâm tư, đánh giá, dự báo diễn biến tư tưởng của cán
bộ, đảng viên và có biện pháp giải quyết kịp thời”.
c) Đối với cán bộ, đảng viên, công chức trong hệ thống
chính trị:
- Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ trong
sạch, vững mạnh, đủ phẩm chất, năng lực, uy tín, ngang tầm nhiệm vụ; ngăn chặn,
đẩy lùi suy thoái trong đội ngũ cán bộ. Thực hiện tốt Nghị quyết 26-NQ/TW của
Ban Chấp hành Trung ương khóa XII về "Xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là cán
bộ cấp chiến lược đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ".
- Thực hiện đúng các quan điểm của Đảng,
chính sách pháp luật của Nhà nước trong thực hành công vụ, trong quan hệ với Nhân
dân. Tích cực tham gia các chương trình mục tiêu, phát triển kinh tế, văn hóa,
xã hội, con người do Đảng, Nhà nước đề ra và phát động, làm gương và giúp đỡ
nhân dân xóa đói, giảm nghèo ở địa phương, trong cộng đồng.
- Kiên quyết đấu tranh chống quan liêu,
tham nhũng, tiêu cực, tự giác thực hiện cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư,
vận động các tầng lớp nhân dân tham gia, thực hiện lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí
Minh: "muốn người ta theo mình, phải làm gương trước".
- Tự giác thực hiện nghiêm Quy định
47-QĐ/TW, ngày 01/11/2011 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về “những
điều đảng viên không được làm”, Quy định 101-QĐ/TW, ngày 7/6/2012 của Ban Bí
thư khóa XI về “trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ chủ
chốt các cấp”, Quy định số 55-QĐ/TW, ngày 19/12/2016 của Bộ Chính trị
khóa XII về “một số việc cần làm ngay để tăng cường vai trò nêu gương của cán bộ,
đảng viên”. Trong đó, có yêu cầu cán bộ, đảng viên phải: (1) “Gương mẫu trong
thực hiện, tuyên truyền và bảo vệ chủ trương, đường lối của Ðảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước; sẵn sàng hy sinh lợi ích cá nhân vì lợi ích chung của Ðảng,
Nhà nước và của nhân dân”; (2) Về đạo đức,
lối sống, tác phong, phải: “Nêu gương về đức khiêm tốn, giản dị; tác
phong sâu sát thực tế, gần gũi để thấu hiểu tâm tư, nguyện vọng chính đáng của
quần chúng, trước hết trong tổ chức, cơ quan, đơn vị công tác và nơi cư trú”; (3)
Về quan
hệ với Nhân dân phải: “Nêu cao ý thức phục
vụ nhân dân; làm việc với thái độ khách quan, công tâm, tập trung sức giải quyết
những lợi ích chính đáng của Nhân dân; lắng nghe tâm tư, nguyện vọng của quần
chúng, chủ động đối thoại với Nhân dân và cán bộ dưới quyền. Gương mẫu thực hiện
nghĩa vụ công dân nơi cư trú. Kiên quyết đấu tranh với những biểu hiện vô cảm,
quan liêu, cửa quyền, hách dịch và các hành vi nhũng nhiễu, gây phiền hà Nhân
dân”./.
BAN TUYÊN GIÁO TRUNG ƯƠNG